Tư tưởng “Dân” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

            Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và Nhân dân ta một di sản tư tưởng to lớn với giá trị vô cùng lớn lao – giá trị lý luận mà nhờ đó đã, đang và sẽ soi đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Trong những di sản tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có “Tư tưởng DÂN” rất đặc sắc của Người.

            Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải người đầu tiên đưa ra “Tư tưởng DÂN”. Trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, do yêu cầu tất yếu của quy luật dựng nước và giữ nước mà cha ông ta đã sớm ý thức được vị thế và vai trò to lớn, không thể thiếu của nhân dân. Và cũng chính từ đây, đã hình thành “Tư tưởng DÂN” (tức tư tưởng trọng dân, thân dân, gần dân) trong quan niệm của lịch sử tư tưởng dân tộc thông qua các đánh giá và ghi nhận về vai trò của nhân dân ở các triều đại phong kiến. Thể hiện rõ nhất và điển hình nhất về “Tư tưởng DÂN” là việc tổ chức Hội nghị Diên Hồng của nhà Trần. Cuối năm 1284, nhằm thống nhất ý chí và tập hợp sức mạnh của toàn dân, triều đình nhà Trần đã trân trọng mời các vị bô lão đại diện cho Nhân dân các làng, xã về dự một hội nghị đặc biệt tại cung điện Diên Hồng để bàn về  quyết sách chống xâm lược, bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng của giặc Nguyên Mông đang đe dọa vận mệnh quốc gia. Có thể khẳng định, “Hội nghị Diên Hồng là một sáng tạo rất độc đáo của nhà Trần, là biểu hiện của ý thức tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của toàn dân. Mãi mãi “Hội nghị Diên Hồng” sẽ ăn sâu và trao truyền trong tâm thức của người dân Việt Nam như một sức mạnh của truyền thống gắn liền với mục tiêu phấn đấu cho nền dân chủ hiện đại. Kể từ đó hai chữ Diên Hồng đã trở thành biểu trưng cho ý chí thống nhất của một dân tộc, thể hiện sự đồng lòng nhất trí giữa Nhà nước với người dân trong mối quan hệ vua – tôi, trên – dưới… Hội nghị Diên Hồng cũng mang ý nghĩa như một nguyên lý tạo nên sức mạnh dân tộc trước những thử thách của lịch sử và trong chừng mực nào đó cũng biểu hiện nhân tố cận dân, thân dân”. 

          Đặc biệt, đến triều đại Hậu Lê thì tư tưởng thân dân được bộc lộ và định hình rất rõ nét ở Nguyễn Trãi. Dân là mối quan tâm thường trực ở Nguyễn Trãi. Ông quan niệm “dân” là nền tảng quan trọng của xã hội, lực lượng chính để bảo vệ đất nước và phát triển xã hội. Ông đặc biệt chú ý đến những tầng lớp nhỏ bé trong xã hội, “người dân trong thôn cùng xóm vắng”, “dân manh lệ”, “xích tử”, “sinh linh”, “bách tính”,… Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi là một quan niệm rất tiến bộ, đánh giá về vị thế và vai trò của nhân dân trên tất cả các phương diện: về sức mạnh quyết định của dân: “… mến người có nhân là dân, mà chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”; về lực lượng tạo ra của cải cho xã hội: “thường nghĩ những quy mô lộng lẫy đều do sức lao khổ của quân dân” và do đó, phải “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”; về mối quan hệ nhân quả, cộng sinh, phải nhận thấy rõ: dân gắn liền với nước, yêu nước là thương dân; về trách nhiệm và lòng nhân nghĩa: phải thương dân, trọng dân, chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Như vậy là, “Từ vai trò quan trọng của dân đến nhân nghĩa, yêu nước và thương dân, Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn, vượt lên trên những khuôn khổ của học thuyết chính trị đạo đức Nho giáo, đạt tới những giá trị văn hoá có tính phổ biến của nhân loại, có ý nghĩa phương pháp luận cho nhiều thế hệ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc, điển hình là tư tưởng thân dân”.

          Tiếp nối và phát triển “Tư tưởng DÂN” trong truyền thống tư tưởng tiến bộ của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển “Tư tưởng DÂN” lên một sắc thái mới, hoàn thiện hơn và cao hơn về chất. Điểm đặc biệt nổi trội trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là ở chỗ, nếu trong nội hàm của “Tư tưởng DÂN” trước đây chỉ đề cập đến phạm trù “Nhân dân” (tức là thân dân, cận dân), thì “Tư tưởng DÂN” của Người đã đề cập đến hai phạm trù “Nhân dân” (thân dân) và phạm trù “Dân tộc” (tức là điểm hội tụ và nhân lên sức mạnh của Nhân dân).

          Tư tưởng thân dân ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm tinh thần dân chủ thân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: “Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Nói một cách khác, tức là “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất thấu hiểu điều này và chính Người là người đầu tiên đã cụ thể hóa “tư tưởng DÂN” và lãnh đạo tiến trình hiện thực hóa “tư tưởng DÂN” thông qua thực hành dân chủ ở Việt Nam. Trước hết, Người cho rằng, thân dân chính là phải thừa nhận và triển khai thực hiện để dân làm chủ khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước mình, và do vậy, dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Với tâm niệm “nước lấy dân làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Song, không dừng lại đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tư tưởng thân dân đuợc hoàn thiện hơn và phát huy được hết sức mạnh thì vị thế của người dân phải được gắn liền với nơi hội tụ – tức dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ thân dân, tức là nhân dân được hưởng quyền lợi và lợi ích chính đáng của mình. Quyền lợi của nhân dân với nghĩa rộng như Hồ Chí Minh đã nói: “nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng nghĩa lý gì”. Với nghĩa hẹp, đó là những quyền lợi thiết thân hàng ngày của Nhân dân, và nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là phải: “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”. Đây là quan điểm rất nhân văn, rất hiện đại trong “tư tưởng DÂN” ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.  

         “Tư tưởng DÂN” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, điều này được thể hiện rõ trong Di chúc của Người. Ngay trong phần mở đầu của Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến quá trình phấn đấu của mình – đó là phấn đấu trước hết là vì Tổ quốc và Nhân dân. Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

          Như vậy, trong Di chúc, “tư tưởng DÂN” trở thành điểm nhấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, khi thực hiện công việc phải nghĩ đến Nhân dân, không được làm ảnh hưởng đến Nhân dân. Người đề nghị: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Và cũng từ đây, Người yêu cầu sau khi thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Nhân dân phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đất nước, phục hồi sự phát triển của dân tộc: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn”.

          Theo tư tưởng thân dân (quan tâm sát sao đến Nhân dân) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải chú ý ngay đến “công việc đầu tiên” là “đối với con người”(Nhân dân). Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải quan tâm tỉ mỉ, sát sao và có những việc làm cụ thể, có những chính sách phù hợp cho tất cả các tầng lớp Nhân dân: đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…); đối với các liệt sĩ; đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ); đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong; đối với phụ nữ; đối với đồng bào nông dân; thậm chí cả đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ;… Bởi vậy, là lực lượng cầm quyền thì “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

          Khi tiếp cận “tư tưởng DÂN” dưới góc độ dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng Nhân dân phải được sống trong một đất nước thống nhất, to đẹp; do đó, phải quyết tâm làm cho đất nước được “xây dựng hơn mười ngày nay”. Tuy nhiên, theo Người “công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Bởi vậy, một điều tất yếu là phải dựa vào dân, chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của dân mới thành công. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Song, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ở đây không chỉ nên bó hẹp trong một quốc gia, mà dân tộc muốn có vị thế chân chính thì phải gắn với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy, Người đã có dự định, sau khi nước nhà thống nhất, Người sẽ trước hết đi làm nghĩa vụ đối với dân tộc: “tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”; “kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu…”.

          Như vậy, một lần nữa, thông qua Di chúc của mình, “tư tưởng DÂN” (Nhân dân và dân tộc) đã đuợc Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức và đã trở thành lý tưởng trong cuộc đời hoạt động cách mạng mà Người luôn tâm niệm để phấn đấu hết mình cho hạnh phúc của Nhân dân và sự trường tồn của dân tộc.

           Tư tưởng thân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được luật hóa trong các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, 1992 và năm 2013 của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Tinh thần này được quy định thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp 2013. Đặc biệt, trong toàn bộ Hiến pháp 2013 từ “Nhân dân” luôn luôn được viết hoa. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, từ “Nhân dân” được viết hoa. Đó không chỉ đơn thuần là thay đổi về kỹ thuật lập hiến mà là sự thay đổi trong nhận thức, đề cao hơn nữa vai trò của Nhân dân – chủ thể quan trọng, duy nhất của quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

          Tư tưởng thân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng ta. Qua các kỳ Đại hội ĐBTQ của Đảng, tư tưởng này ngày càng được bổ sung, phát triển. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, với việc bổ sung hai thành tố “dân giám sát, dân thụ hưởng”, tư tưởng thân dân đã có bước phát triển mới về chất, hệ thống hơn, hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”.

          “Tư tưởng DÂN” của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới góc độ dân tộc cũng đuợc Đảng ta vận dụng, cụ thể hóa trong thực tiễn. Sinh thời, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, vị thế dân tộc và lợi ích dân tộc (quốc gia) là quan trọng, thiêng liêng và điều này được thể hiện ở độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Quán triệt và nhất quán và “tư tưởng DÂN” (dưới góc độ dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta đã khẳng định rõ mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia – dân tộc. Đặc biệt, đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc” và được đưa thành quan điểm chỉ đạo cho toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII và cho cả trong nhiều thập kỷ tới. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, nhất là khi các quốc gia trên thế giới đương đại đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để xử lý các mối quan hệ và giải quyết mọi vấn đề đang diễn ra thì việc Đảng ta đưa ra quan điểm chỉ đạo trên là rất hợp lý, kịp thời và đáp ứng được những tình thế và diễn biến phức tạp đang diễn ra trên thế giới. Do đó, hơn lúc nào hết, việc quán triệt và thấm nhuần “tư tưởng DÂN” (lợi ích dân tộc) của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các hoạt động đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân là rất quan trọng để bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia – dân tộc./.

Người tổng hợp tin: Nguyễn Thị Thu Hà

Đăng ký nhận tin.